Mỗi nhóm m.áu đều có đặc điểm và ảnh hưởng đến sức khỏe khác nhau.
Người nhóm m.áu A có sức chịu đựng cao nhưng dễ bị nhồi m.áu não, phụ nữ nhóm m.áu AB có nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn…
Bác sĩ chuyên khoa 1 Võ Thị Huỳnh Nga, Bệnh viện đa khoa Quốc tế Nam Sài Gòn, cho biết mỗi người sinh ra có một nhóm m.áu hoàn toàn khác nhau, được quy định bởi nhiều hệ kháng nguyên nhóm m.áu trong cơ thể.
Nhiều nghiên cứu cho rằng, đặc điểm về nhóm m.áu cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và tính cách của con người. Nhận biết đúng nhóm m.áu có thể cho giúp bạn có những thông tin để tự bảo vệ sức khỏe của mình.
Nhóm m.áu A: Sức chịu đựng cao nhưng dễ bị nhồi m.áu não
Theo thống kê, nhóm m.áu A là nhóm m.áu chiếm tỷ lệ lớn nhất trên thế giới. Người nhóm m.áu A có cơ thể linh hoạt, sức bền cao, thường ít bị bệnh như cảm cúm, sốt, sức đề kháng tương đối mạnh, nhưng người nhóm m.áu A nên chú ý về đường tiêu hóa và nguy cơ cao bị nhồi m.áu não.
Nhóm m.áu A có độ nhạy cảm n.hiễm t.rùng cao, cùng với sự gia tăng độ nhớt (độ quánh) của m.áu, độ nhớt m.áu tăng cao là yếu tố quan trọng gây nhồi m.áu não. Bệnh nhân đau nửa đầu thuộc nhóm m.áu A luôn có độ nhớt m.áu cao hơn các nhóm m.áu khác.
Ngoài ra, người nhóm m.áu A dễ bị trúng gió, ung thư và các bệnh nguy hiểm khác. Thống kê lâm sàng cho thấy 1/3 số người mắc bệnh ung thư có nhóm m.áu A, nhiều nhất là ung thư dạ dày, lưỡi, thực quản, bướu thịt,…
Nhóm m.áu B: Khỏe mạnh hơn các nhóm khác nhưng dễ bị bệnh kết hạch
Người nhóm m.áu B có tỷ lệ bị sâu răng, kết hạch, ung thư vòm họng, ung thư vú, ung thư m.áu cao hơn các nhóm khác.
Mỗi người sinh ra có một nhóm m.áu khác nhau. ẢnhSHUTTERSTOCK
Nhóm m.áu AB: Phản ứng linh hoạt nhưng tỷ lệ mắc bệnh tâm thần phân liệt cao
Nhóm m.áu AB là sự hợp nhất của nhóm m.áu A và nhóm m.áu B, nhóm m.áu này vừa có kháng nguyên của nhóm m.áu A vừa có kháng nguyên của nhóm m.áu B. Vì vậy, những người thuộc nhóm m.áu này cũng tích hợp các đặc điểm của hai nhóm m.áu trên bao gồm cả nhược điểm.
Thống kê cho thấy người có nhóm m.áu AB có nguy cơ mắc chứng tâm thần phân liệt cao hơn các nhóm khác gấp 3 lần và có khuynh hướng di truyền. Ở những người mắc bệnh tim thiếu m.áu cục bộ, nhóm m.áu AB cũng chiếm đa số.
Nhóm m.áu AB có tỷ lệ bệnh ung thư, kết hạch, thiếu m.áu khi có thai thấp hơn nhiều so với các nhóm khác. Người nhóm m.áu này có tỷ lệ bị ung thư và đột quỵ thấp nhưng lại dễ mắc bệnh động mạch vành, tỷ lệ nhồi m.áu cơ tim khá cao. Phụ nữ nhóm m.áu AB dễ bị ung thư cổ tử cung.
Theo bác sĩ Huỳnh Nga, mặc dù trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về những ảnh hưởng của nhóm m.áu đến các bệnh lý. Tuy chưa thống nhất về quan điểm chung nhưng đây cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải chú ý hơn đến sức khỏe của mình. Với những bệnh lý liên quan đến nhóm m.áu của bản thân thì cần được kiểm tra định kỳ để kiểm soát phòng ngừa và điều trị sớm nhất.
Thay đổi thành công nhóm m.áu trong nội tạng cấy ghép
Lần đầu tiên các nhà khoa học Canada đã chuyển đổi thành công nhóm m.áu trong nội tạng người để phục vụ kỹ thuật cấy ghép.
Chuyển đổi nhóm m.áu giúp cơ quan nội tạng được hiến tặng có thể phù hợp với bất kỳ ai. Ảnh: Getty Image
Theo đài Sputnik, phương pháp đột phá này được công bố trên tạp chí y khoa Science Translational Medicine ngày 16/2.
Phòng Nghiên cứu Giải phẫu Lồng ngực Latner và Trung tâm cấy ghép Ajmera thuộc mạng lưới bệnh viện UHN (Canada) đã chứng minh rằng có thể chuyển đổi nhóm m.áu một cách an toàn trong các cơ quan hiến tặng nhằm phục vụ quy trình cấy ghép. Ví dụ các cơ quan nội tạng từ người hiến tặng có nhóm m.áu O được coi là phổ biến vì không có kháng nguyên kết dính gồm protein A và B trong m.áu. Điều này có nghĩa là các cơ quan đó tương thích với tất cả bệnh nhân, kể cả những người có nhóm m.áu hiếm nhất là AB.
Các nhà khoa học Canada đã đưa thành công tất cả nhóm m.áu trong các cơ quan nội tạng cấy ghép thành nhóm m.áu O bằng cách sử dụng enzym FpGalNAc-deacetylase và enzym FpGalactosaminidase loại bỏ kháng nguyên kết dính trong m.áu. Quá trình enzyme phá hủy các kháng nguyên kết dính kéo dài 4 giờ đồng hồ.
Trong giai đoạn đầu, các nhà khoa học đã thử nghiệm phương pháp này trên mô động mạch chủ. Sau đó, họ đã tiến phá hủy thành công kháng nguyên protein A trong 8 mẫu phổi.