Cơ quan giám sát sức khỏe của Liên hợp quốc cho biết gần 60% người lớn bị thừa cân hoặc béo phì tại châu Âu.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết, tỷ lệ béo phì đã đạt đến “tỷ lệ dịch bệnh” ở châu Âu. Vấn đề này đã được nhấn mạnh trong một báo cáo của WHO được công bố tại hội nghị các quốc gia châu Âu về bệnh béo phì vào hôm 3/5.
Cơ quan giám sát y tế của Liên hợp quốc cảnh báo tỷ lệ này “vẫn đang tiếp tục leo thang”. WHO cũng chỉ ra rằng không có quốc gia nào trong khu vực có khả năng sẽ đáp ứng được mục tiêu đến năm 2025 về bệnh không lây nhiễm (NCD) toàn cầu, trong đó có việc ngăn chặn tỷ lệ béo phì gia tăng.
WHO cảnh báo tỉ lệ béo phì tại châu Âu đang không ngừng gia tăng.
“Đáng báo động là tỷ lệ thừa cân và béo phì đã có sự gia tăng đồng đều và không một quốc gia nào trong khu vực đạt được mục tiêu ngăn chặn sự gia tăng béo phì đến năm 2025″, báo cáo của WHO nêu.
Căn bệnh béo phì đang khiến khoảng 1,2 triệu ca t.ử v.ong và gây ra khoảng 200.000 ca ung thư trong khu vực hàng năm. Báo cáo của WHO cũng nhấn mạnh con số này còn tiếp tục tăng lên và ở một số quốc gia, bệnh béo phì được dự đoán sẽ vượt qua các tác nhân vốn được cho là nguyên nhân gây ung thư khác, trong đó có hút thuốc.
“Trên toàn khu vực châu Âu, béo phì có thể là nguyên nhân trực tiếp gây ra ít nhất 200.000 trường hợp ung thư mới. Con số này dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên trong những thập kỷ tới”, WHO cho hay.
Hiện tại, theo số liệu của WHO, khoảng 59% người trưởng thành ở châu Âu bị thừa cân hoặc béo phì. Vấn đề này cũng đang ảnh hưởng đến t.rẻ e.m. Theo đó, 7,9% t.rẻ e.m dưới 5 t.uổi – khoảng 4,4 triệu t.rẻ e.m, đang gặp vấn đề với trọng lượng cơ thể dư thừa.
Tình hình còn tồi tệ hơn đáng kể ở t.rẻ e.m trong độ t.uổi đi học, trong đó 1/3 trẻ bị thừa cân. Xu hướng “giảm tạm thời ở thanh thiếu niên”, với khoảng 1/4 ca mắc bệnh. Báo cáo của WHO cũng cho biết tỷ lệ béo phì ở châu Âu cao hơn so nhiều khu vực khác trên thế giới, chỉ sau châu Mỹ.
WHO cho hay, cần phải có một cách tiếp cận toàn diện để giải quyết vấn đề này, đồng thời cơ quan này cũng thừa nhận rằng “không có biện pháp can thiệp đơn lẻ nào có thể ngăn chặn sự gia tăng căn bệnh này”.
Các biện pháp được WHO đưa ra bao gồm tăng thuế đối với đồ uống có đường và trợ cấp cho thực phẩm lành mạnh, hạn chế quảng cáo thực phẩm không lành mạnh cho t.rẻ e.m, cũng như “cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ quản lý béo phì và thừa cân trong chăm sóc sức khỏe ban đầu, coi đây như một phần của bảo hiểm y tế toàn dân”.
Nghiên cứu: Rất ít người nhập viện do COVID-19 hồi phục hoàn toàn sau một năm
Nghiên cứu mới cho thấy, chỉ gần 29% bệnh nhân nhập viện vì COVID-19 có thể hồi phục hoàn toàn trong một năm sau khi nhiễm bệnh.
Sức khỏe của bệnh nhân mắc COVID-19 thể nặng tiếp tục bị ảnh hưởng đến một năm sau khi mắc bệnh, khiến nhu cầu phát triển các phương pháp điều trị trở nên khẩn cấp.
Tác giả nghiên cứu Christopher Brightling từ Đại học Leicester (Anh), cho biết: “Nếu không có phương pháp điều trị hiệu quả, “COVID kéo dài” có thể trở thành một tình trạng mới phổ biến trong thời gian dài”.
Nghiên cứu với sự tham gia của hơn 2.300 người này cũng cho thấy phụ nữ có khả năng hồi phục hoàn toàn thấp hơn 33% so với nam giới.
Ngoài ra, những người bị bệnh béo phì và những người từng phải thở máy thậm chí còn có khả năng phục hồi hoàn toàn thấp hơn, với tỷ lệ tương ứng là 50% và dưới 58%.
Được biết, các nhà khoa học đã xem xét tình trạng sức khỏe của những bệnh nhân COVID-19 xuất viện tại 39 bệnh viện ở Anh trong giai đoạn từ tháng 3/2020 đến tháng 4/2021. Sau đó, họ đ.ánh giá kết quả hồi phục của 807 người trong 5 tháng và 1 năm sau khi mắc bệnh.
Kết quả cho thấy chỉ 26% bệnh nhân hồi phục hoàn toàn sau 5 tháng và con số đó chỉ tăng nhẹ lên 28,9% sau 1 năm.
Các di chứng hậu COVID-19 phổ biến nhất là mệt mỏi, đau cơ, ngủ kém, chậm chạp về thể chất và khó thở.
Các tác giả nghiên cứu nhấn mạnh: “Ngay cả 1 năm sau khi xuất viện, nhiều người bị COVID kéo dài gặp các triệu chứng nghiêm trọng, bao gồm giảm khả năng vận động và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe”.
Nghiên cứu này sẽ được trình bày tại hội nghị của Hiệp hội Vi sinh lâm sàng và Bệnh truyền nhiễm Châu Âu. Các nhà khoa học hiện vẫn đang tiến hành và sẽ tiếp tục theo dõi sức khỏe của những bệnh nhân trong nghiên cứu.