Sau một năm gián đoạn do dịch COVID-19, trẻ mầm non đã quay trở lại trường học, tuy nhiên tình trạng trẻ chậm nói ở lứa 2 – 3 t.uổi đang có chiều hướng gia tăng.
Trẻ chậm nói gia tăng
Một số giáo viên trường mầm non cho biết, trẻ đã quay trở lại trường học nhưng nhiều trẻ nhập học trong tình trạng chậm nói, ngôn ngữ kém phát triển (nhất là lứa sinh năm 2018, 2019). Thậm chí có nhiều trẻ trước đây đã nói được nhiều, nhưng sau khi nghỉ dịch thì không nói nhiều như trước.
Theo UNICEF, COVID-19 đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của t.rẻ e.m trên toàn cầu. Tại Việt Nam, dịch khiến trẻ không được đến trường, hạn chế giao tiếp, vận động và phải đối mặt với các vấn đề về sức khỏe tinh thần, tâm lý như stress, căng thẳng và trong đó có nguy cơ chậm nói.
Sau một năm gián đoạn do dịch COVID-19, trẻ mầm non đã quay trở lại trường học, tuy nhiên tình trạng trẻ chậm nói ở lứa 2 – 3 t.uổi đang có chiều hướng gia tăng.
Ths.Bs Đinh Thạc – Trưởng khoa Tâm lý BV Nhi đồng 1 (TP.HCM) cho hay, thời gian gần đây tại khoa mỗi ngày tiếp nhận khá nhiều trẻ tới khám. Trong 10 trường hợp trẻ đến tư vấn tâm lý mỗi ngày tại bệnh viện Nhi đồng 1 thì có khoảng 2-3 trẻ có tình trạng chậm nói, chủ yếu ở độ t.uổi 2 – 3 t.uổi. May mắn, 95% trong số này là trẻ chậm nói đơn thuần, không kèm theo nguyên nhân vật lý hoặc tâm lý đi kèm.
“Chỉ một số nhỏ dưới 5% chậm nói liên quan đến bệnh lý do trẻ có bất thường hở môi hở hàm ếch, trẻ có biểu hiện bất thường về tâm thần, trẻ có thính lực kém, do biến chứng bệnh lý màng não, do rối loạn phổ tự kỷ…“, Ths Thạc cho biết.
Ths.Bs Đinh Thạc cho rằng, từ 2-3 t.uổi là khoảng thời gian vàng để trẻ phát triển ngôn ngữ. Đối với trẻ chậm nói đơn thuần, nguyên nhân chậm nói hơn 80% do yếu tố tâm lý xã hội. Thời gian nghỉ ở nhà do dịch COVID-19, cha mẹ do bận rộn nên ít tương tác, giao tiếp với trẻ đồng thời tâm lý sợ trẻ quậy phá nên để trẻ tiếp xúc quá nhiều với thiết bị điện tử.
Theo Bs Thạc, việc tiếp xúc nhiều với màn hình điện tử là cách giao tiếp thụ động, là một trong những nguyên nhân khiến trẻ chậm nói, không phát triển ngôn ngữ. Hiệp hội Nhi khoa Hoa Kỳ đã đưa ra khuyến cáo, trẻ trên 2 t.uổi mới được tiếp xúc với thiết bị điện tử, thời lượng tiếp xúc cũng ở mức hạn chế, không quá 2 giờ đồng hồ để không ảnh hưởng đến việc phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Khắc phục tình trạng chậm nói ở trẻ thế nào?
Ths.Bs Đinh Thạc nhấn mạnh về vai trò quan trọng của các vị phụ huynh đối với việc thực hiện các biện pháp kết hợp tại gia đình làm tăng khả năng nói của trẻ. Cần hạn chế cho các con tiếp xúc với các thiết bị điện tử và tăng khả năng tương tác, giao tiếp với trẻ.
Nhiều bậc phụ huynh ban ngày rất bận, nhưng buổi tối có thể dành thời gian chơi với trẻ bằng các trò chơi tương tác như trốn tìm, nói chuyện, đá bóng, chơi vòng,… sẽ khiến trẻ thích thú và có thể bật được âm nói.
Đặc biệt, vị bác sĩ này cho rằng nên dạy trẻ tiếp xúc bằng mắt càng nhiều càng tốt. Việc này giúp trẻ dần hiểu được người lớn nói gì. Trẻ muốn gì thì cha mẹ nên dạy bé chỉ những vật cần, dạy bé nói các đồ vật đó giúp cải thiện tình trạng giao tiếp phi ngôn ngữ, rối loạn ngôn ngữ, chậm nói ở trẻ rất hiệu quả.
Theo ThS.BS. Thạc, cha mẹ cũng cần quan tâm tới chế độ dinh dưỡng giúp phát triển thể chất, trí não bởi đây là một quá trình phát triển liên tục từ trong bào thai cho tới khi trẻ được 2 t.uổi và trong suốt giai đoạn học đường. Bên cạnh việc cung cấp đầy đủ 4 nhóm thành phần thực phẩm cơ bản như: nhóm bột đường, chất đạm, chất béo, chất xơ, vitamin khoáng chất,… trẻ cần được bổ sung nhóm omegabởi cơ thể của trẻ không thể tự tổng hợp được chất này. Omega có 2 nguồn thực vật và động vật. Omega thực vật rất có nhiều lợi điểm phù hợp với trẻ.
Lý giải về điều này, ông Thạc cho hay: “Ngôn ngữ được kích hoạt từ chuỗi dẫn truyền thần kinh, từ cơ quan nghe nhìn rồi chuyển đến não để ghi nhận và bắt chước, ra tín hiệu đưa đến cơ quan phát âm để bật ra tiếng nói. Omega thực vật bảo vệ tế bào não, giúp cho tế bào não phát triển tối ưu, hệ thống thần kinh dẫn truyền tiện lợi, tiếp nhận thông tin chính xác, nhanh hơn.
Như vậy, não bộ đóng vai trò hết sức quan trọng giúp trẻ bật ra tiếng nói, ghi nhớ hình ảnh nhanh nhạy hơn, cho nên việc bổ sung đầy đủ những axit béo chưa no cho bé đóng vai trò quan trọng, trong đó có nhóm axit béo omega 3 từ thực vật”.
Dưới góc nhìn về dinh dưỡng ảnh hưởng như thế nào đến việc phát triển ngôn ngữ của trẻ, Ths.Bs Lê Thị Hải – Nguyên Giám đốc Trung tâm Khám tư vấn dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng quốc gia, Chủ tịch Chi Hội Dinh dưỡng Nhi khoa cho biết, nhóm axit béo omega 3 – axit béo chưa no đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với não bộ.
“Trẻ cần được cung cấp đầy đủ axit béo omega 3 ngay từ khi còn trong bụng mẹ và khi chào đời góp phần rất quan trọng trong phát triển trí não. Ưu điểm nổi bật nhất của omega thực vật đó là không có mùi, không tanh, không gây kích ứng nôn trớ, dễ uống cho trẻ. Đồng thời omega thực vật rất dễ hấp thu, dễ dung nạp và đặc biệt rất an toàn với trẻ bởi không có nguy cơ nhiễm kim loại nặng, chì, thủy ngân như loại omega khác”, bác sĩ Hải nhấn mạnh.
Theo các chuyên gia, chậm nói ở trẻ cần được phát hiện và can thiệp sớm bởi chậm nói sẽ dẫn tới một số kĩ năng khác cũng bị hạn chế theo như trẻ nhút nhát, không tự tin và có thể ảnh hưởng cả tới chỉ số IQ, chỉ số cảm xúc. Tình trạng này kéo dài sẽ khiến trẻ phải đối mặt với nguy cơ tăng động, giảm chú ý, tư duy logic ngôn ngữ của trẻ bị hạn chế, thậm chí tự kỷ.
Khoa học chứng minh ăn nhiều cá biển làm giảm phát triển khối u vú đến 50%
Cá biển là món ăn yêu thích của nhiều người, nhưng mấy ai biết rằng, thực phẩm này còn có khả năng giúp ích trong việc điều trị bệnh ung thư vú ở nữ giới.
Cá biển là thực phẩm rất giàu chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe, đặc biệt là omega-3. Omega-3 là một loại axit béo không no, cần thiết cho sự phát triển của con người. Dưỡng chất này không có sẵn trong cơ thể mà được bổ sung từ chế độ ăn uống. Ba loại omega-3 quan trọng nhất đó chính là ALA (axit alpha-linolenic), DHA (axit docosahexaenoic) và EPA (axit eicosapentaenoic). Trong đó, ALA được tìm thấy nhiều nhất trong các loại thực vật, còn DHA và EPA có nhiều trong hải sản.
Theo một nghiên cứu được dẫn dắt bởi tiến sĩ Saraswoti Khadge thuộc Trung tâm Y học Nebraska ở Omaha (Mỹ), ngoài tác dụng ngăn ngừa bệnh tim mạch, cải thiện thị lực, hỗ trợ phát triển não bộ, tăng cường hệ miễn dịch…, omega-3 còn có khả năng phòng chống và điều trị bệnh ung thư vú một cách hiệu quả. Cụ thể, các nhà khoa học đã tiến hành quan sát hai nhóm động vật gặm nhấm (đã được tiêm các tế bào ung thư vú) với hai chế độ ăn uống khác nhau, một nhóm ăn nhiều thực phẩm chứa chất béo omega-6 không bão hòa, nhóm còn lại tiếp nạp thức ăn giàu omega-3.
Sau 35 ngày, họ phát hiện ra rằng, các tế bào ung thư vú ở nhóm omega-3 có tốc độ di căn chậm hơn một cách rõ rệt, thậm chí một số tế bào ung thư còn có dấu hiệu ngừng phát triển. Được biết, khối u trong các đối tượng này sở hữu kích thước nhỏ hơn khối u của nhóm omega-6 đến 50%. Đây được xem là sự phát hiện quan trọng giúp ích cho tiến trình điều trị bệnh nhân ung thư vú trên khắp thế giới.
“Nghiên cứu của chúng tôi nhấn mạnh vào vài trò chữa bệnh tiềm năng của chế độ ăn uống giàu axit béo omega-3 trong việc khống chế sự phát triển của khối u và di căn. Từ đó, khẳng định rằng, ăn nhiều thực phẩm có hàm lượng omega-3 cao như cá biển, hải sản… có khả năng làm giảm sự tăng trưởng khối u vú một cách đáng kể” – Tiến sĩ Saraswoti Khadge chia sẻ.
Một nghiên cứu khác được đăng trên Tạp chí Cancer Epidemiology còn cho biết, ăn cá biển có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú ở phụ nữ lên đến 32%. Đối với nam giới, omega-3 có khả năng ngăn ngừa ung thư tuyến t.iền liệt một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc thường xuyên ăn cá biển còn có thể giúp ngăn chặn tình trạng m.áu vón cục dẫn tới tắc nghẽn tim mạch, giảm nguy cơ đột quỵ. Đồng thời, chất này còn có tác dụng ngăn chặn chứng mất trí nhớ ở người cao t.uổi, hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường, giảm viêm nhiễm, “xoa dịu” cơn đau khớp, đẹp da, tăng chất lượng t.inh t.rùng, giảm nguy cơ trầm cảm…